Lịch sử hoạt động Hawker Sea Fury

Một chiếc Sea Fury FB 11 phóng lên từ tàu sân bay HMS Glory vào năm 1951

Chiếc Supermarine Seafire của Hải quân Hoàng gia trước đây chưa bao giờ hoàn toàn phù hợp để hoạt động trên tàu sân bay, có tầm nhìn kém khi hạ cánh và có khoảng cách vệt bánh đáp của bộ càng đáp khá hẹp làm cho việc hạ cánh và cất cánh phải thật "khéo léo". Kết quả là chiếc Sea Fury F.X thay thế nó trên hầu hết các tàu sân bay.[3] Sea Fury được trang bị cho các phi đội 736, 738, 759 và 778 của Không lực Hải quân Hoàng gia.

Chiếc F.X được tiếp nối bởi phiên bản tiêm kích-ném bom Sea Fury FB.XI, sau này được gọi là FB.11, mà sau này đạt đến tổng số sản xuất là 650 máy bay. Chiếc Sea Fury trở thành máy bay tiêm kích-ném bom chủ lực của Không lực Hải quân Hoàng gia cho đến năm 1953, khi những chiếc Hawker Sea HawkSupermarine Attacker được đưa ra hoạt động.

Chiến tranh Triều Tiên

Chiếc FB 11 phục vụ trong suốt Chiến tranh Triều Tiên trong vai trò máy bay tấn công mặt đất, hoạt động từ các tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Hoàng gia: HMS Glory, HMS Ocean, HMS Theseus, và chiếc tàu sân bay Australia HMAS Sydney.[4] Vào ngày 8 tháng 8 năm 1952, Trung úy Hải quân Hoàng gia Peter "Hoagy" Carmichael bắn rơi một chiếc máy bay phản lực Mikoyan-Gurevich MiG-15 trong một trận không chiến, trở thành một trong số ít máy bay tiêm kích cánh quạt đã bắn rơi được một máy bay tiêm kích phản lực. Một chiếc A-1 Skyraider đã bắn rơi một chiếc Mikoyan-Gurevich MiG-17 tại Việt Nam vào ngày 20 tháng 6 năm 1965, nhưng chiếc Skyraider được xếp loại là một kiểu máy bay ném bom cường kích. Ngoài ra, một số nguồn khác cho là còn có một chiếc MiG thứ hai bị bắn rơi,[5] nhưng đa số các tác giả không nhắc đến điều này; cho dù cách nào, đây thường được cho là chiến công không chiến duy nhất của một phi công Anh trên một máy bay Anh trong cả cuộc Chiến tranh Triều Tiên.[2] Trận chiến xảy ra khi một đội bay hỗn hợp những chiếc Sea Fury và Fairey Firefly đối đầu với tám chiếc MiG-15, trong đó một chiếc Firefly bị hư hại khá nặng còn những chiếc Sea Fury thoát được mà không bị hư hại. Một trận chiến tương tự xảy ra ngày hôm sau khi những chiếc máy bay tiêm kích Sea Fury sử dụng tính năng cơ động xuất sắc của nó để thoát khỏi cú công kích của MiG-15 cho dù một chiếc Sea Fury phải cố lết về tàu sân bay HMS Ocean.

Các phục vụ sau đó

Sea Fury FB.11 được đưa ra hoạt động tại các phi đội tiêm kích của lực lượng Trừ bị Tình nguyện Hải quân Hoàng gia vào tháng 8 năm 1951. Nó được trang bị cho các phi đội 1831, 1832, 1833, 1834, 1835 và 1836. Phi đội 1832 là đơn vị cuối cùng từ bỏ kiểu máy bay này vào tháng 8 năm 1955.

Phiên bản xuất khẩu Sea Fury F.50 cho thấy rất được ưa chuộng, được bán cho Australia, Canada, Đức, Iraq, Ai Cập, Miến Điện, PakistanCuba. Hà Lan mua 24 máy bay, sau đó thương lượng một giấy phép để chế tạo thêm 24 chiếc F.50 bởi hãng Fokker. Những chiếc Sea Fury Cuba tham gia chiến đấu trong Sự kiện Vịnh Con Heo. Con số sản xuất cuối cùng cho tất cả các phiên bản là khoảng 860 máy bay.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hawker Sea Fury http://1000aircraftphotos.com/Contributions/Pippin... http://1000aircraftphotos.com/Contributions/Pippin... http://www.kotfsc.com/aviation/fury.htm http://www.unlimitedair.com/Hawker_Sea_Fury_Histor... http://www.fleetairarmarchive.net/aircraft/Seafury... http://www.vectorsite.net/avcfury.html http://www.acig.org/artman/publish/article_306.sht... https://web.archive.org/web/20090210040132/http://... https://web.archive.org/web/20160827142131/http://... https://commons.wikimedia.org/wiki/Category:Hawker...